Translate

Thứ Tư, 25 tháng 12, 2024

NHỚ VỀ MỘT TRẬN ĐÁNH Ở U MIN

Hồi ký: Đoàn Công Thiện (CCB Trung đoàn 1 U Minh) Tháng mười một lại về, gợi trong tôi nhớ về vùng chiến địa U Minh, nhớ về trận đánh diển ra cách nay trên 50 năm, giáng một đòn chí tử vào chiến dịch “Nhổ cỏ U Minh” của quân đội Sài Gòn, ghi đậm dấu ấn lịch sử cho quê hương Kiên Giang một chiến tích hào hùng. Đó là trận tập kích chiến thuật vào sở chỉ huy Lữ đoàn B Thủy Quân Lục Chiến (thuộc lực lượng tinh nhuệ cấp Trung ương của chính quyền ngụy Việt Nam Cộng Hòa) tại căn cứ Thứ Mười Một (thị trấn An Minh ngày nay) vào đêm 5 rạng 6 tháng 11 năm 1969. Đơn vị chúng tôi (Đại đội cao xạ 12 ly 7 Tiểu đỏa 2311 QK9), được cấp trên điều động phối thuộc cho Trung đoàn 1 U Minh tham gia trận đánh này. Đại đội có 3 khẩu đội chia ra mỗi khẩu đội đi theo mỗi mũi tấn công. Là y tá, tôi được phân công theo khẩu đội có nhiệm vụ bắn chế áp hỏa lực để pháo DKZ (loại súng không giật cở đạn 75mm) của đơn vị bạn tiêu diệt tàu địch. Đối với những người Chiến sĩ chúng tôi, khát vọng giải phóng quê hương, giải phóng đất nước như một ngọn lửa luôn âm ỉ cháy và bùng lên mãnh liệt khi cơ hội đến. Chính vì vậy, khi biết mình được trực tiếp tham gia trận đánh, chúng tôi ai cũng náo nức, hâm hở với một tâm trạng lạ thường. Không ai bảo ai, mỗi người đều lo phần việc của mình, tất cả đều sẳn sàng với một quyết tâm chiến thắng. Khoản 5 giờ chiều, chúng tôi có lệnh xuất phát. Con đường hành quân vượt qua bao làng xóm xơ xác tiêu điều bởi bom pháo của đối phương; Những ngôi nhà hoang vắng, không chủ nằm dọc theo bờ kênh, gợi lên trong tôi một nỗi đau day dứt. Quân ngụy Sài Gòn đã trút biết bao nhiên bom pháo, tàn phá hủy diệt sự sống của con người, bao nhiêu mạng sống của người dân đã ngã xuống trên mãnh đất yêu thương của mình !… Trời xẩm tối, chúng tôi đến ngã tư Rọ Ghe, rồi quẹo lên ngọn kênh. Rừng U Minh mịt mù trong đêm tối; Sao trời nhấp nháy, ánh sáng yếu ớt hắt xuống không soi rõ đường hành quân; Xuồng sau bám theo xuồng trước, cứ thế lần trong lung cạn mà đi. Khoản 24 giờ chúng tối đến ngoại vi căn cứ đối phương, đơn vị chia nhau đi về vị trí đã định. Mương cạn, xuồng phải nhích dần, vào sâu bên trong chứng 200m, chúng tôi lên bờ đào Công sự phòng không. Lúc này Tiều đoàn 307 cũng bỏ xuồng lên bộ đi vào trong. Đào xong công sự, chúng tôi chuyển súng đạn lên vác bộ bán theo Trinh sát vào tiếp cận mục tiêu. Sắp đến vị trí đặt súng thì bất ngờ, có hai tiếng nổ lớn phát ra từ bên kia sông, tiếp theo là mấy loạt tiều liên nổ vang, Pháo sáng của đối phương bắn lên cháy sáng rực, một lúc sau tiếng máy tàu ầm ầm phát ra cùng với tiếng của bọn lính la ó nhốn nháo trong căn cứ. “Lộ là cái chắc”, tôi nghĩ như vây. `Không nao núng, với phương án đã thống nhất, chúng tôi khẩn trương tiếp cận vị trí đặt súng. Đến nơi chúng tôi đã thây các anh Pháo DKZ đang lắp súng ngay trên nhà sàn của Dân bỏ trống và tháo vách là để tránh cháy nhà khi bắn. Khẩu 12 ly 8 của chúng tôi cũng được anh em lắp đặt ngay trên mặt lộ, cách khẩu DKZ chừng 10 mét. Nơi chúng tôi đặt súng chỉ cách mục tiêu khoản 170m. Dưới ánh pháo sáng, chiếc Tiểu pháo hạm trắng toát, to xù, đậu choáng một khoảng sông rộng, phía trên cắm hai là cờ ủ rủ không lay động (Cờ Mỹ và Cờ chính quyền Sài Gòn). Đạn đã lên nòng, tầm ngắm được cố định, tất cả chúng tôi hồi hộp chờ lệnh phát hỏa. Một lúc sau có thông tin cho hay ta bị lộ, anh em Bộ binh đang tìm cách tiếp cận Sở Chỉ huy đối phương. Trong chiến thuật đánh tập kích, yếu tố bí mật có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Có thể nói, nó quyết định cho thành bại của trận đánh, nếu bị lộ thì khả năng thất bại và thương vong nhiều có thể sảy ra, nên chúng tôi ai cũng rất lo lắng .. . Đến khoảng hơn 2 giờ, từ phía sau cứ điểm (nơi đặt Sở Chỉ huy Trung đoàn 1 U Minh), một phát pháo hiệu màu đỏ vọt lên, lập tức các loại hỏa lực của ta, đồng loạt dội vào căn cứ đối phương trên hai bờ sông. Tiếng nổ của Binh khí hổn độn, dồn dập, không còn nghe được gì khác. Khẫu DKZ bắn ngay một quả trúng chiếc Tiểu pháo hạm, anh em reo lên rồi lắp đạn bắn tiếp. Khẩu 12 ly 8 của chúng tôi cũng nhả từng điểm xạ ngắn, những chùm đạn cắm vào tàu đối phương vọt lên đỏ lừ . . . Cứ thế cả hai bên (DKZ và 12 ly 8) thi nhau bắn vào các mục tiêu trên sông. Trong căn cứ của đối phương, súng tiểu liên AK, Thủ pháo, P40, P41 nổ không ngớt, ánh chớp liên tục lóe lên, súng phun lửa phóng ra những chùm lửa sáng xanh phủ lên Tàu... Bên kia sông, Trung đoàn 2 cũng đang phát triễn đánh trên toàn tuyến, hỏa lực dội vào khu vực Pháo binh nổ dữ dội. Từ căn cứ Cả Bát, Pháo của đối phương bắt đầu bắn chi viện, đạn pháo nổ khu vực Chỉ huy sở của Trung đoàn, nhưng được vài trái rồi ngưng (sau này mới biết cụm pháo đó bị Pháo của D 2311 bắn trúng). Bị hỏa lực của ta khống chế áp đảo, chúng chỉ sử dụng 1 khẩu 12 ly 7 và súng M 79 dây, bắn lại được vài loạt thì bị khẩu DKZ bắn trúng vô hiệu, chỉ còn tiếng súng bộ binh và lựu đạn nổ bên trong căn cứ…. Trận đánh diễn ra chừng 40 phút thì tiềng súng thưa dần, chúng ta làm chủ hoàn toàn trận địa. Trời sáng dần, chúng tôi được lệnh rút về căn cứ. Trên đường rút quân, máy bay của đối phương cũng kịp thời bay đến, quần đảo bắn những loạt đại liên cực nhanh xuống chung quanh xuồng chúng tôi nước văng lên tung túe, nhưng chúng tôi vẫn không bị phát hiện . . .Khoảng 10 giờ chúng tôi về đến nơi trú quân an toàn. Phải nói rằng con đường tiếp cận và rút lui được các Trinh sát chọn rất độc đáo ở chỗ: Đường hành quân của Bộ đội là con Lung nước len lõi trong rừng tràm dày đặc, không có tên trên bản đồ, khiến đối phương không thể đoán được mặc dù Bộ đội rút quân vào ban ngày, với hằng trăm con người cùng phương tiện. Trận đánh đã đi vào lịch sử, ghi dấu son chói sáng về lòng yêu nước của những người chiến sĩ Giải Phóng Quân miền Tây Nam bộ, những người Nông dân mặc áo lính “Thật thà chất phát…” nhưng ngoan cường dũng cảm, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hơn năm mươi năm đã trôi qua, trận đánh ấy mãi mãi in đậm vào ký ức của thế hệ những người lính Trung đoàn 1 U Minh chúng tôi, trên con đường kháng chiến như là một mảng màu rực đỏ không bao giờ phai nhạt. --------------------------- (*) Trong cuốn lịch sử Trung đoàn Bộ binh 1 (Trung đoàn U Minh), Sư đoàn 330 Quân khu 9, Nhà xuất bản QĐND ấn hành năm 2005 tổng kết: Trận đánh nói trên, ta loại khỏi vòng chiến đấu 680 quân của đối phương (có 4 cố vấn Mỹ và đại tá Lữ đoàn trưởng), bắt 21 tù binh, bắn chìm và cháy 8 tàu chiến (trong đó có 1 Tiểu pháo hạm), phá hủy 6 khẩu pháo, thu nhiều súng và phương tiện thông tin. Ta hy sinh 19 người (trong đó Trung đoàn 1 U Minh hy sinh 11 có 1 Chính ủy Trung đoàn và 1 Tham mưu trưởng Tiểu đoàn).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét