Translate

Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

THĂM LẠI TRUNG ĐOÀN (Thơ)

Chiều nay (22-09-2013) ĐCT cùng các CCB Trung đoàn 1 - U Minh ở Kiên Giang, sẽ về họp mặt tại Trung đoàn. Thiên Tân đăng bài thơ THĂM LẠI TRUNG ĐOÀN để các bạn xem. Bài thơ này ĐCT viết nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Quân đội (22-12). Tên bài thơ được làm tựa cho tập thơ riêng của ĐCT do Hội văn nghệ Kiên Giang và Nhà xuất bản Phương Đông xuất bản năm 2005, và bài thơ được đăng trong cuốn lịch sử Trung đoàn bộ binh 01, Sư đoàn 330 (QK9) do Nhà xuất bản QĐND phát hành.

 

Tôi về thăm lại Trung đoàn.
Mùa huấn luyện đang vào giai đoạn cuối.
Trời vùng biên heo heo gió núi.
Mai nở vàng báo hiệu tiết xuân sang.
Bộ đội hành quân rung nhịp lá ngụy trang.
Mìn diễn tập, âm vang vọng lại.
Gợi trong tôi một thời nếm trải.
Thời đạn bom - máu chảy - chiến tranh.
Một thời bằng ý chí và niềm tin.
Ta làm cuộc trường chinh đánh Mỹ.
Một thời bên nhau Đồng chí.
Son sắc, thủy chung, trọn nghĩa, vẹn tình.
Nhớ năm nào giặc đánh phá U - Minh.
Gian khổ hy sinh, áo cơm không đủ.
Cả Trung đoàn vẫn bền gan bám trụ.
Đồng đội kề vai, trên dưới một lòng.
Súng chắc tay ta lập nên chiến công.
Trận Thứ - Mười - Một (*), dòng sông loan máu giặc.
Đại bác gục nòng, hạm tàu tan xác.
Bọn Lữ đoàn tan tác thây phơi.
Đồn giặc thù rút chạy khắp nơi nơi.
Xóm thôn lại âm vang tiếng hát.
Tràm lại xanh, xanh ngát U – Minh.
Giặc chạy rồi ta lại hành quân.
Về châu thổ trong đội hình thần tốc.
Đường giải phóng rộng, dài, ngang, dọc.
Dòng Cữu - Long sạch bóng quân thù.
Cờ đỏ rợp trời, nắng trải tháng Tư.
Đất nước yên rồi từ Nam ra Bắc.
Miệng ta cười sao mặn dòng nước mắt !
Đồng đội chúng tôi, ai mất ai còn ?
Thương bao mẹ hiền mòn mỏi trông con.
Đất nước mừng công, mẹ không còn gặp mặt.
Ôi ! ta nghe lòng đau quặn thắt.
Có chiến thắng nào không mất mát hy sinh ?
Vì độc lập - tự do - no ấm - hòa bình.
Ta phải đổi bằng xương, bằng màu.
Để muôn đời, mai sau con cháu.
Không còn đau nỗi đau chiến tranh.

Sáng xuân nay trong ánh sớm bình minh.
Súng thực binh lại gầm trên bãi tập.
Pháo mặt đất, pháo phòng không, cấp tập.
Khói mịt mù, tầng thấp tầng cao.
Bóng quân kỳ, phần phật ánh sao.
Tăng thiết giáp, băng vào cửa mở.
Những chớp lửa, mục tiêu tan vỡ.
Binh chủng hiệp đồng, Trung đoàn tiến công.
Ta nghe như vang dậy núi sông.
Hào khí của binh hùng thuở trước.
Từng đập tan bao đạo quân xâm lược.
Những Bạch - Đằng, Hàm - Tử, Chi - Lăng.
Lấp lánh ngàn năm, trang sử vàng.
Tỏa sáng năm Châu, dân tộc Việt.
Và hôm nay trong vòm trời xanh biếc.
Ta lại làm người hậu thế giữ biên cương.
Dẫu áo đẫm mồ hôi, da sạm khói súng thao trường.
Lính Trung đoàn vẫn kiên cường giữ đất.
Sẵn sàng hiến thân cho tổ Quốc.
Như cha ông ta từng xông pha giết giặc.
Cho non sông ta mãi mãi được trường tồn.


(*) Địa danh của thị trấn huyện An Minh tỉnh Kiên Giang ngày nay. Nơi đã diễn ra trận đánh tập kích căn cứ Lữ đoàn B Thủy quân lục chiến, thuộc lực lượng tinh huệ quân Ngụy Sài – Gòn vào đêm 05 rạng ngày 06 tháng 11 năm 1969, do Trung đoàn 1 U - Minh và một Trung đoàn bạn tiến hành, loại khỏi vòng chiến đấu 680 tên (có 4 cố vấn Mỹ), bắt sống 21 tù binh, bắn cháy và chìm 8 tàu chiến, phá hủy 6 khẩu pháo và nhiều phương tiện chiến tranh khác.

---------------

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

NGHĨA TÌNH ĐỒNG ĐỘI (Bài viết)

 Mấy hôm nay, được tin ngày 23-09-2013 (Kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Trung đoàn 1 U Minh) sẽ có cuộc họp mặt các CCB tại Trung đoàn, ai cũng mừng gọi điện thông tin cho nhau. Thiên Tân đăng bài viết này để các bạn cùng xem.

NGHĨA TÌNH ĐỒNG ĐỘI 

                               Bài và ảnh: Đoàn Công Thiện

Chiều cuối năm, Nhà khách T 80 Quân khu 9, bừng lên trong cảnh tay bắt mặt mừng của các Cựu chiến binh Trung đoàn, những người đã góp phần làm rạng danh cái tên “Trung đoàn 1 - U Minh anh hùng” của một thời đánh giặc.

Cảm động đến tuôn trào nước mắt khi ôn lại những chặng đường đã qua ai còn ai mất, những thăng trầm của mỗi người còn lại hôm nay. Thời gian vô hình cứ trôi, trôi vào quá khứ, mang theo bao biến đỗi của lịch sử, mang theo cả tuổi thanh xuân của các anh, những chàng trai nông dân “thật thà chất phát …” nhưng giàu lòng yêu nước. Mới hôm nào, với sức trẻ phơi phới niềm tin trong tư thế của người chiến sỉ giải phóng, đầu đội nón tay bèo, vai khoác súng xông pha nơi trận mạc mà giờ đây, mái tóc đã pha sương trong tuổi xế chiều.

Nếu không phải là người trong cuộc, có lẽ, khó ai có thể lý giải được vì sao một cuộc họp mặt chỉ được thông tin trên phương tiện truyền hình, qua lời nhắn gọi của bạn bè, mà quy tụ đến hơn 400 con người từ khắp mọi nơi ở đồng bằng sông Cữu Long và cả ở phía Bắc xa xôi cũng về đây - miền đất phương Nam ngập tràn nắng và gió này. Nếu không phải là người trong cuộc, người ta cũng không thể hiểu được vì sao họ vượt hằng trăm, hằng ngàn cây số đến Cần Thơ chỉ để được thức với nhau một đêm, để được ăn với nhau một bửa cơm, mặc dù với không ít người, chuyến đi này là cả vấn đề nan giải về tiền bạc.

Các anh  đến với nhau bằng chính trái tim của người lính, bằng cái nghĩa, cái tình của một thời là đồng đội, sống chết bên nhau dưới bom gầm đạn réo. Các anh bước qua chiến tranh bằng tình cảm dạt dào của tình yêu quê hương, tình yêu đất nước; bằng sự thủy chung son sắt của bốn chữ “đồng chí - đồng bào”. Các anh bước qua chiến tranh bằng lòng dũng cảm phi thường và sự hy sinh vô bờ bến để góp phần làm nên mùa xuân 1975 ở mảnh đất tận cùng của tổ quốc; để làm nên một Đoàn U Minh ba lần anh hùng.

Bao năm đương đầu với sự tàn khốc của bom bừa pháo dội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; 30 tháng 4 năm 1975, đất nước được giải phóng, những người lính Trung đoàn chưa được hưởng niềm vui trọn vẹn của ngày hòa bình thì hiểm họa chiến tranh lại đến: Bọn diệt chủng Pol Pốt gieo rắc mầm chết cho đồng bào hai dân tộc Việt, Khơme. . . Bỏ lại phía sau mái ấm gia đình, bỏ lại những dự tính cho cuộc sống yêu vui, người lính Trung đoàn lại một lần nửa ôm súng lên đường làm cuộc trường chinh giúp bạn. Biên cương Tổ quốc đón các anh, đất nước Chùa tháp gọi các anh. . .  Mười năm  với rừng thiêng nước độc, mười năm với thương vong bệnh tật, các anh trở về khi đất nước bạn được bình yên  nhưng trên thân thể các anh không ít người còn hằn sâu những vết tích đạn găm, da sạm đen bởi sốt rét rừng và nỗi đau lớn nhất đối với các anh chính là những đồng đội còn nằm lại nơi chiến trường không mộ bia, không người thân chăm sóc. . .  Với các anh, một quá khứ bi thương và hùng tráng ấy mãi mãi hằng sâu trong ký ức không thể nào phai nhạt được và đó cũng chính là lý do, là động lực để các anh đến với nhau trong cuộc hội ngộ này.

Thật cảm động biết bao trước hình ảnh Đại tướng Phạm Văn Trà ôm hôn người chiến sỉ năm xưa (ảnh), một trong hằng ngàn người lính đã cùng ông đi suốt cuộc chiến đến ngày giải phóng. Ông sinh ra và lớn lên trên đất Bắc, vì miền Nam thân yêu, theo mệnh lệnh của Đảng và Bác Hồ, ngay những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông vào trên chiến trường miền Tây Nam bộ và đã trở thành người chỉ huy của Trung đoàn. Trong lời tâm sự với mọi người ông nói: “dù nhiều hay ít, mỗi người chúng ta đều có công tô thắm truyền thống vẽ vang cho Trung đoàn và đều có quyền tự hào về điều đó. Trong chiến tranh chúng ta từng sống chết bên nhau thì ngày nay chúng ta vẫn mải mải sống với nhau đầy nghĩa tình đồng chí đồng đội và tiếp tục bằng hành động của mình đóng góp cho sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta trong công cuộc xây dựng đất nước hôm nay, để xứng đáng với chiếc huy hiệu chúng ta đang đeo trên ngực, biểu tượng truyền thống của Trung đoàn 1- U Minh anh hùng. . .”

Vâng! đó chính là điều tâm niệm tâm đắc nhất của các anh, những người có mặt hôm nay cũng như những ai không có dịp trong trong cuộc gặp đầy nghĩa tình này.

--------------

Đã đăng trên Báo Kiên Giang, Báo QK9.