Translate

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

MẸ HUỲNH THỊ HUI VÀ HAI LIỆT SĨ HỌ ĐOÀN (Ký)



MẸ HUỲNH THỊ HUI VÀ HAI LIỆT SĨ HỌ ĐOÀN
------------------ 
          Ký của Đoàn Công Thiện
Cơ duyên đưa tôi đến với mẹ Hui từ người con gái út của mẹ, cô Đoàn Thị Út. Do có việc có liên quan đến pháp lý, Út đến nhờ tôi giúp đỡ, khi biết tôi cùng họ Đoàn và là bộ đội trong chiến tranh (qua các bức ảnh trưng bày trên bàn), cô bộc bạch tâm sự: Em cũng họ Đoàn, em có bốn anh trai đi bộ đội thì hai anh đã hy sinh thời chống Mỹ đến giờ vẫn chưa tìm được mộ, hai anh còn lại cũng đều bị thương đã có gia đình riêng; Ba chết đã lâu, má trên tám mươi tuổi đang sống với em, ngày ngày má cứ mong mỏi tìm được mộ các anh . . .
Dẫu mới biết, mới quen, nhưng qua cử chỉ, giọng điệu trong lời tâm sự của Út, tôi hiểu đó là những điều chân thật tự đáy lòng mà cô muốn giải bày cùng tôi. Dường như trong lời kể ấy, còn ẩn chứa sự khát khao cháy bỏng về tình ruột thịt mà bấy lâu nay chiến tranh đã cướp mất, để cô phải sống trong sự trống vắng khôn cùng của hai người anh thân yêu trong mái ấm gia đình. Dẫu mới biết, mới quen, nhưng những cử chỉ và giọng điệu ấy, có điều gì đó rất gần, rất thân thiết như người thân thuộc nhất của tôi.
Rồi một ngày tôi đến thăm mẹ. Con đường dẫn tôi về quê mẹ được trải bê tông bằng phẳng len lỏi dưới những hàng dừa, rặng chuối xum xuê. Xa xa những tấm thảm lúa đang độ xuân thì xanh ngắt . . .  Một khung cảnh thanh bình mà cách nay hơn ba mươi năm, tôi và  các con của mẹ cùng bao đồng đội khác của tôi, phải đánh đổi tất cả tuổi thanh xuân để có được. Nhà mẹ tuy không khang trang nhưng được xây tường, lợp mái tôL, lát gạch bông sạch đẹp. Trong nhà cũng có đủ tiện nghi cho cuộc sống của gia đình ở mức trung bình. Mẹ khoe: Căn nhà do Nhà nước cấp tiền nhưng không đủ, các con phụ giúp thêm mới được như vậy. Tiền hằng tháng hai xuất liệt sĩ non hai triệu, đủ tiền trầu cau, đường sữa . . . Kể ra thì mức sống của mẹ như vậy cũng thỏa mãn rồi, chủ trương của Đảng: Phấn đấu làm sao cho mức sống của gia đình thương binh liệt sĩ phải bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú đã trở thành hiện thực đối với mẹ, chỉ có điều: Hài cốt hai liệt sĩ con của mẹ vẫn chưa về với mẹ.
Lúc mới đến, gặp tôi mẹ mừng lắm! mẹ không cho tôi ngồi dưới gạch tiếp mẹ mà bắt phải vào nhà, mặc dù tôi vẫn muốn ngồi với mẹ ở ngoài này, để mẹ khỏi phải đi lại khó khăn (mẹ đang ngồi trên võng). Rồi mẹ gọi Út, gọi chị của Út, gọi các cháu lại giới thiệu tôi cùng họ với mọi người. Mẹ nói với tôi: Mày trước cũng là bộ đội, tao gặp mày như gặp lại hai thằng con tao rồi, đôi mắt mẹ rươm rướm nhìn vào xa xăm như tiếc nuối điều gì đó. Tôi nhận ra bao nỗi niềm da diết với các con, với một quá khứ bi hùng mà mẹ đã trải qua, còn đọng lại sâu thẳm trong ánh mắt già nua của mẹ.
Theo thông lệ, tôi đến thắp nén nhan cuối đầu mặt niệm trước bàn thờ. Trong hai tấm bằng Tổ quốc ghi công, một ghi tên Đoàn văn Thành, một ghi tên Đoàn Văn Hồng. Anh Thành hy sinh tháng 2 năm 1968, anh Hồng hy sinh tháng 4 năm 1968. Trong vòng ba tháng, mẹ mất liền hai người con thân yêu, có nỗi đau nào đau hơn đối với mẹ? Hỏi mẹ các anh công tác ở đâu, mẹ cho biết: Anh Thành ở Tiểu đoàn 207, thuộc tỉnh đội Kiên Giang, còn anh Hồng ở Tiểu đoàn 307, bộ đội chủ lực.
Một sự trùng hợp ngẫu nhiên hiếm có đối với tôi, anh Hồng đã cùng Trung đoàn (Trung đoàn 1 U Minh Quân khu 9). Tôi gọi ngay điện thoại cho một số anh trước đây ở Tiểu đoàn 307 với hy vọng có người biết trường hợp hy sinh của anh Hồng, may ra biết được mộ, nhưng chưa ai có thông tin về anh. Thời gian trên 40 năm, quá lâu rồi, hơn nửa, nếu anh Hồng chỉ mới vào bộ đội một vài tháng rồi hy sinh, thì khó có thể có người còn nhớ anh. Dẫu sao, tôi vẫn mong một ngày nào đó sẽ gặp được người biết về anh.
Trưa hôm ấy mẹ mời cơm. Như với người con đi xa mới về, mẹ bảo Út làm bửa cơm khá thịnh soạn, có đủ các món giò heo hầm, lòng xào, vịt kho ăn với bún. . . Tôi hiểu, ở quê những món ăn như thế là sang lắm! và với mẹ, những món ấy phải hao đi một khoản tiền không ít, thật tình tôi rất ái ngại. Ái ngại chỉ vì tôi cùng họ với các con của mẹ, mà gia đình quá ưu ái đối với tôi.
Trong bửa cơm ấy, mẹ kể nhiều về các anh con của mẹ, về một thời bám trụ nuôi chứa cán bộ. Ngoài anh Thành và anh Hồng ra, mẹ còn hai anh nữa cũng đều đi bộ đội và đều bị thương. Sau khi anh Thành hy sinh không lâu, một lần có một người con gái mẹ chưa từng gặp, đã tìm đến nhà thưa với mẹ rằng: chị là người yêu của anh Thành và nhận mẹ là mẹ chồng, chị ở với mẹ vài ngày rồi đi không thấy quay lại nửa.
Mẹ nói, nước mắt lưng tròng: Con bé đó tốt quá, chưa thành vợ thành chồng với thằng Thành mà nó đến nhìn nhận con trong gia đình, tao thương nó quá! nhưng không hiểu sao nó không quay lại thăm tao? Không biết nó ở đâu, còn sống hay cũng hy sinh rồi?
Mẹ khóc, những giọt nước mắt chảy ra từ hai khóe mắt nhăn nheo của mẹ. Cả nhà lặng đi, tôi cũng lặng theo. Trong thời buổi mà con người vì cuộc sống mưu sinh, vì đam mê vật chất, không ít những kẻ bán mất lương tri, quên đi nhân nghĩa, thì cái  tình cái nghĩa cao cả của mẹ Hui, là một tấm gương ngàn lần trong sáng.
Nắng chiều xế bóng, tôi phải từ giã mẹ ra về. Với chiếc gậy tre rung rung trong tay, tôi nghe lời tiễn biệt của mẹ lắc lay trong gió: Mày đi nhớ về ghé lại thăm tao, tao nhớ mày lắm đó.
Cảm ơn mẹ Hui. Một khoảnh khắc bên mẹ, một bửa cơm chân quê của mẹ đã cho tôi gặp lại hình bóng mẹ tôi, hình bóng ngoại tôi và hình bóng của bao bà mẹ khác, những bà mẹ một thời đã ân cần chăm chút cho chúng tôi, người chiến sĩ Giải phóng quân trên những nẻo đường kháng chiến.
* Đã đăng trên Báo Kiên Giang ngày 22-02-2013 và trên Tạp chí CHIÊU ANH CÁC số 106 tháng 04 năm 20013

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét