(Nhân vật nói trong bài viết, người ngồi thứ ba từ trái qua ở hàng ghế đầu)
CỨU SỐNG ĐỒNG ĐỘI
Đoàn
Công Thiện
(Cựu
Y tá Quân y Trung đoàn 1 – QK 9)
Trong chiến tranh, có nhiều chuyện nghe
kể, khó có thể tin được đó là sự thật. Một
trong những chuyện ấy là việc Y tá Nguyễn Công Bình, với một mũi lê súng Cạt –
Bin, đã cứu sống đồng đội.
Vào khoản tháng 5 tháng 6 năm 1970, Tiểu
đoàn 307 Trung đoàn 1 U Minh (Nay thuộc
Sư đoàn 330, Quân khu 9), tiến
hành trận đánh chi khu Ngang Gừa (nay là huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu). Sau
khi trận đánh kết thúc, còn một thương binh chưa kịp đưa về tuyến sau, Y tá
Bình được cấp trên phần công cùng Tám Tuấn (cũng là Y tá) chuyển đến đội phẫu
thuật cách nơi đóng quân của Tiểu đoàn hơn 4 cây số.
Người đồng đội bị thương ấy tên Lê Văn
Hóa, là chiến sĩ Quân khí của Tiểu đoàn. Anh bị một mãnh đạn M 79 ghim vào cổ, vết thương nhỏ, không ra
máu, không có băng bó. Xuống xuồng, thấy bạn hút thuốc, Hóa cũng xin một điếu.
Nghĩ là vết thương phần mềm, hơn nửa thấy Hóa đi đứng bình thường, biết bạn đã
thức
trắng trong đêm, bảo đảm súng đạn cho anh em chiến đầu, nên Bình không ngần
ngại cho anh hút. Không ngờ điếu thuốc ấy lại trở thành tai họa cho Hóa.
Vừa hít được mấy hơi
thuốc, Hóa có biểu hiện bị ngạt thở. Anh vật vã, lăn lộn trên xuồng. Với kinh
nghiệm nghề nghiệp, Bình biết ngay vết thương của Hóa đã thấu khí quản chứ không phải phần mềm
như nhận định ban đầu. Trên tay không có bất cứ dụng cụ chuyên môn nào, chỉ còn
cách bơi thật nhanh về đội phẫu thì họa may mới cứu được Hóa.
Đoạn đường còn lại phải mất hằng giờ đồng
hồ, Bình và Tuấn bơi cật lực, mồ hôi vã ra, ở giửa xuồng Hóa vẫn oằn oại, anh
nói những lời trăn trối với Bình và Tuấn. Một lúc sau, Hóa nằm yên, mặt tái
nhợt, quần anh ước dầm nước tiểu. Tình thế rất nguy kịch, sự sống của Hóa chỉ
còn trong chốc lác. Bất chợt, Bình nhìn thấy chiếc lưỡi lê súng Cạt – Bin nằm
lăn lóc dưới khoan xuồng. Một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu Bình: “mở khí quản – chỉ có mở khí quản mới cứ
sống Hóa, không còn cách nào khác”. Bình bảo Tuấn tiếp tục bơi, còn anh lấy
chiếc lê lao lại nơi Hóa nằm. Lúc này toàn thân Hóa mềm nhũn, ngực căng phồng
không còn co thắt được nửa. Bình đưa mũi lưỡi lê ngay yết hầu của Hóa cắm vào,
một tiếng “sột” nhẹ, vết thương hé mở, hơi và máu từ cổ họng của Hóa tuông ra,
anh moi những cục máu tụ còn vướng nơi cửa miệng vết mở rồi dùng ngón tay chèn
giữ yên, tạo đường thở mới cho Hóa. Cứ thế, anh bảo Tuấn cố gắng bơi nhanh về đội phẫu.
Sau những động tác dứt khoát ấy, tình
trạng ngưng thở của Hóa đã được khắc phục, anh bắt đầu thở nhẹ, da mặt tươi lại
nhưng thể trạng thì rất yếu. Chỉ có một mình điều khiển, Tuấn cố gắng hết sức
lực bơi, phải mất cả giờ anh mới đưa xuồng chở hai người tới đội phẫu. Hóa được
đưa lên trạm và được giải phẫu cứu sống.
Chuyện cứu đồng đội thoát chết trong giây
lát của Y tá Nguyễn Công Bình là vậy, nhưng không ngờ, vết mở khí quản hôm ấy
đã để lại cho Hóa một di chứng không còn nói được bình thường như mọi người sau
khi lành vết thương. Do vết mở đã làm tổn thương đến bộ phận phát âm trong thanh
quản, tiếng nói của anh bị biến dạng không còn nghe được.
*
* *
Ba mươi lăm năm trôi qua, chuyện đã đi
vào quá khứ. Lê Văn Hóa, người đồng đội được Bình cứu sống ngày ấy đã hi sinh
trong một tai nạn nghiệp vụ sau đó ít lâu. Y tá Nguyễn Công Bình năm nào giờ là
Đại tá, đang giữ cương vị chỉ huy ở một đơn vị huấn luyện quân sự của Quân khu
(*). Cứ mỗi dịp gặp lại đồng đội xưa, anh xót xa nhắc lại chuyện cũ và cảm thấy
như mình có lỗi: Giá như lúc đó khéo hơn,
biết lách lưỡi lê vào chỗ khác thì Hóa đâu có mất đi tiếng nói.
Âu đó cũng là chuyện bình thường của
chiến tranh. Trong lúc thập tử nhất sinh của Hóa, yêu cầu cấp thiết nhất lúc
bấy giờ là cứu sống đồng đội, thì việc gây ra sự cố ấy cũng là lẽ đương nhiên không thể tránh khỏi.
Hành động của Y tá Nguyễn Công Bình đã
thể hiện bản lĩnh quyết đoán của người chiến sĩ Quân y và là một điều kỳ dịu
hiếm có trong lịch sử cứu thương của ngành Quân y trong quân đội ta.
Qua mẫu truyện trên, cho chúng ta thấy
được cái cao cả của người chiến sĩ Giải phóng trong cuộc chiến tranh vừa qua là
hết lòng vì đồng đội.
(*)
Ông là Chính ủy Trường quân sự Quân khu.
-------------------------------
Đã đăng trên báo Quân khu 9,
kỳ 1 tháng 2 năm 2009 và trên Báo Kiên Giang.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét