-------------------------
NHỮNG CĂN CỨ MIỄN TRÁCH NHIỆM
TỐ GIÁC TỘI PHẠM CỦA NGƯỜI BÀO
CHỮA
Luật sư Đoàn Công Thiện
(Chủ
nhiệm Đoàn Luật sư Kiên Giang)
Vấn đề Người bào chữa có nghĩa vụ tố giác hay
không tố giác tội phạm; bị hay được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, về hành
vi không tố giác tội phạm … đã có sự tranh luận quyết liệt, không những chỉ ở
diển đàn Quốc hội, mà ở tất cả các kênh thông tin khác. Những ý kiến trái chiều
thể hiện quan điểm khác nhau với những luận điểm đối chọi khá gay gắt.
Để có cơ sở lý luận, lý giải những căn cứ
miễn trách nhiệm tố giác tội phạm của người bào chữa trong quá trình tham gia hoạt
động tố tụng, khi biết người bị tạm giữ (hình sự), bị can, bị cáo, mà mình có
nghĩa vụ bào chữa phạm tội, thiết nghĩ cần phải xem xét nó trong mối quan hệ đa
chiều với các chế định pháp lý khác và những đặc điểm riêng biệt trong quá
trình hoạt động tham gia tố tụng của người bào chữa, để đưa ra qui định hợp lý
trong nội dung sửa đổi Bộ luật hình sự lần này.
Trước hết phải khẳng định nghĩa vụ công dân
đối với an ninh Quốc gia và sự an toàn trật tự xã hội là nghĩa vụ thiêng liêng
cao quí, nó gắn liền với quyền được sống trong môi trường lành mạnh của mọi
người. Luật sư cũng là một công dân, nên không thể không thực hiện nghĩa vụ của
mình trong việc bảo vệ sự an toàn an ninh Quốc gia và trật tự xã hội.
Tuy nhiên, khi Luật sư đã tham gia tố tụng
với tư cách là Người bào chửa trong vụ
án hình sự thì quyền và nghĩa vụ pháp lý đã bị ràng buộc người bào chữa phải tuân
thủ những chế định riêng biệt, nhằm góp phần vào quá trình bảo vệ công lý. Pháp
luật qui định thể hiện tính chất riêng biệt trong hoạt động tham gia tố tụng
của người bào chữa như sau:
Một là: Luật sư bị cấm, không được tiết lộ thông tin về
vụ, việc, về khách hàng mà mình biết
được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác (tiết c, khoản 1, điều 9 Luật Luật sư 2013). Luật sư có nghĩa vụ: giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực
hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được
khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật (Qui tắc 12 – Qui
tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam đã được Bộ trưởng bộ Tư pháp
phê chuẩn).
Hai là: Người bào chữa có nghĩa vụ: Sử dụng mọi
biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người
bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo (tiết a, khoản 2, điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015).
Không được
từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu không
vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan (tiết c khoản 2 điều 73 Bộ luật tố tụng 2015). Người bào chữa của người bị
buộc tội không được làm chứng buộc tội người mà mình đang bào chữa (tiết a,
khoản 2 điều 66, Bộ luật tố tụng 2015).
Ba là: Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng (điều 15, Bộ luật tố tụng hình sự 2015). Người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo có quyền không buộc phải đưa ra
lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội (các điều 59,
60, 61 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).
Những qui định
trên đây cho thấy: nếu người bào chữa đi tố giác cũng có nghĩa sẽ trở thành
nhân chứng buộc tội người mình đang nhận bào chữa và buộc phải từ chối bào chữa,
điều này mâu thuẫn với tiết a,
khoản 2 điều 66 và tiết c khoản 2 điều 73 đã viện dẫn ở trên. . . điều đó
cho thấy có sự xung đột nghĩa vụ pháp lý trong hoạt động tố tụng.
Còn một vấn đề khác cần phân tích
thấu đáo. Nếu bắt buộc người bào chữa phải tố giác hành vi phạm tội của người
mà mình có nghĩa vụ bào chữa, thì liệu rằng với những thông tin chưa được kiểm
chứng bằng một cuộc điều tra toàn diện và kết luận của bản án thì căn cứ vào
đâu để xác định người đó phạm tội gì, tính chất có đặc biệt nghiêm trọng hay
không nghiêm trọng? v.v…
Với những nội dung phân tích nêu trên cho thấy: loại
trừ hành vi tố giác của người bào chữa và miễn truy cứu trách nhiệm về tội
không tố giác tội phạm đối với hành vi phạm tội của người mà Luật sư có nghĩa
vụ bào chữa là một yêu cầu mang tính khách quan.