HÃY LÊN TIẾNG
Đoàn Công Thiện
Hãy lên tiếng hỡi con dân đất Việt
Bằng trái tim rực lửa giống Tiên rồng
Bằng ý chí ngàn năm giữ nước
Hùng khí hồn thiêng dân tộc của cha ông.
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên Thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư"
Hãy lên tiếng nhân danh tổ Quốc
Bằng dũng khí Bạch Đằng, Hàm Tử, Đống Đa
Như Quang Trung, Ngô Quyền, Lê Lợi
Cho lịch sử muôn đời toả sáng trong ta.
Nơi đăng tải và lưu giữ các tác phẩm văn học nghệ thuật, tác phẩm báo chí, những sự kiện trong cuộc sống và luận bàn các vấn đề khác mọi người cùng quan tâm.
Translate
Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2014
Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014
SÔNG KIÊN MÙA HOA DẦU RỤNG (Thơ)
(Một góc sông Kiên)
SÔNG KIÊN (*)
MÙA HOA
DẦU RỤNG
----------------------
Đoàn Công Thiện
Sao anh
không về thăm con sông xưa
Nhìn hoa
rụng đong đưa quay theo gió
Hàng
phượng vĩ cháy trong chiều ráng đỏ
Những thân
dầu rêu phủ đứng trầm tư
Ngày gặp
anh năm ấy tháng Tư
Phượng
cũng nở hoa dầu vào độ chín
Đường phố
rộn bước chân người Lính
Các anh
về hối hả những đoàn Quân
Nhánh
phượng hồng dào dạt bâng khuâng
Thương
cánh dầu bay dãi dầm nắng gió
Gieo mầm
xanh thành sắc trời sắc cỏ
Cho sông
Kiên cổ thụ mát bên dòng
Đã bao
lần phượng vĩ nở bên sông
Là bấy
nhiêu mùa hoa dầu chín rụng
Thành phố
trẻ trung biển trời lồng lộng
Nhà vươn
cao màu gạch mới tươi hồng
Tháng tư
này phượng vẫn cháy bên sông
Dầu lại
rụng tung cánh mềm trong gió
Trách
tháng năm kéo dài bao cách trở
Để sông
Kiên luôn thương nhớ đợi anh về.
----------------------
(*) Một
con sông trong thành phố Rạch Giá Kiên Giang
Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014
CỨU SỐNG ĐỒNG ĐỘI (Bài viết)
(Nhân vật nói trong bài viết, người ngồi thứ ba từ trái qua ở hàng ghế đầu)
CỨU SỐNG ĐỒNG ĐỘI
Đoàn
Công Thiện
(Cựu
Y tá Quân y Trung đoàn 1 – QK 9)
Trong chiến tranh, có nhiều chuyện nghe
kể, khó có thể tin được đó là sự thật. Một
trong những chuyện ấy là việc Y tá Nguyễn Công Bình, với một mũi lê súng Cạt –
Bin, đã cứu sống đồng đội.
Vào khoản tháng 5 tháng 6 năm 1970, Tiểu
đoàn 307 Trung đoàn 1 U Minh (Nay thuộc
Sư đoàn 330, Quân khu 9), tiến
hành trận đánh chi khu Ngang Gừa (nay là huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu). Sau
khi trận đánh kết thúc, còn một thương binh chưa kịp đưa về tuyến sau, Y tá
Bình được cấp trên phần công cùng Tám Tuấn (cũng là Y tá) chuyển đến đội phẫu
thuật cách nơi đóng quân của Tiểu đoàn hơn 4 cây số.
Người đồng đội bị thương ấy tên Lê Văn
Hóa, là chiến sĩ Quân khí của Tiểu đoàn. Anh bị một mãnh đạn M 79 ghim vào cổ, vết thương nhỏ, không ra
máu, không có băng bó. Xuống xuồng, thấy bạn hút thuốc, Hóa cũng xin một điếu.
Nghĩ là vết thương phần mềm, hơn nửa thấy Hóa đi đứng bình thường, biết bạn đã
thức
trắng trong đêm, bảo đảm súng đạn cho anh em chiến đầu, nên Bình không ngần
ngại cho anh hút. Không ngờ điếu thuốc ấy lại trở thành tai họa cho Hóa.
Vừa hít được mấy hơi
thuốc, Hóa có biểu hiện bị ngạt thở. Anh vật vã, lăn lộn trên xuồng. Với kinh
nghiệm nghề nghiệp, Bình biết ngay vết thương của Hóa đã thấu khí quản chứ không phải phần mềm
như nhận định ban đầu. Trên tay không có bất cứ dụng cụ chuyên môn nào, chỉ còn
cách bơi thật nhanh về đội phẫu thì họa may mới cứu được Hóa.
Đoạn đường còn lại phải mất hằng giờ đồng
hồ, Bình và Tuấn bơi cật lực, mồ hôi vã ra, ở giửa xuồng Hóa vẫn oằn oại, anh
nói những lời trăn trối với Bình và Tuấn. Một lúc sau, Hóa nằm yên, mặt tái
nhợt, quần anh ước dầm nước tiểu. Tình thế rất nguy kịch, sự sống của Hóa chỉ
còn trong chốc lác. Bất chợt, Bình nhìn thấy chiếc lưỡi lê súng Cạt – Bin nằm
lăn lóc dưới khoan xuồng. Một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu Bình: “mở khí quản – chỉ có mở khí quản mới cứ
sống Hóa, không còn cách nào khác”. Bình bảo Tuấn tiếp tục bơi, còn anh lấy
chiếc lê lao lại nơi Hóa nằm. Lúc này toàn thân Hóa mềm nhũn, ngực căng phồng
không còn co thắt được nửa. Bình đưa mũi lưỡi lê ngay yết hầu của Hóa cắm vào,
một tiếng “sột” nhẹ, vết thương hé mở, hơi và máu từ cổ họng của Hóa tuông ra,
anh moi những cục máu tụ còn vướng nơi cửa miệng vết mở rồi dùng ngón tay chèn
giữ yên, tạo đường thở mới cho Hóa. Cứ thế, anh bảo Tuấn cố gắng bơi nhanh về đội phẫu.
Sau những động tác dứt khoát ấy, tình
trạng ngưng thở của Hóa đã được khắc phục, anh bắt đầu thở nhẹ, da mặt tươi lại
nhưng thể trạng thì rất yếu. Chỉ có một mình điều khiển, Tuấn cố gắng hết sức
lực bơi, phải mất cả giờ anh mới đưa xuồng chở hai người tới đội phẫu. Hóa được
đưa lên trạm và được giải phẫu cứu sống.
Chuyện cứu đồng đội thoát chết trong giây
lát của Y tá Nguyễn Công Bình là vậy, nhưng không ngờ, vết mở khí quản hôm ấy
đã để lại cho Hóa một di chứng không còn nói được bình thường như mọi người sau
khi lành vết thương. Do vết mở đã làm tổn thương đến bộ phận phát âm trong thanh
quản, tiếng nói của anh bị biến dạng không còn nghe được.
*
* *
Ba mươi lăm năm trôi qua, chuyện đã đi
vào quá khứ. Lê Văn Hóa, người đồng đội được Bình cứu sống ngày ấy đã hi sinh
trong một tai nạn nghiệp vụ sau đó ít lâu. Y tá Nguyễn Công Bình năm nào giờ là
Đại tá, đang giữ cương vị chỉ huy ở một đơn vị huấn luyện quân sự của Quân khu
(*). Cứ mỗi dịp gặp lại đồng đội xưa, anh xót xa nhắc lại chuyện cũ và cảm thấy
như mình có lỗi: Giá như lúc đó khéo hơn,
biết lách lưỡi lê vào chỗ khác thì Hóa đâu có mất đi tiếng nói.
Âu đó cũng là chuyện bình thường của
chiến tranh. Trong lúc thập tử nhất sinh của Hóa, yêu cầu cấp thiết nhất lúc
bấy giờ là cứu sống đồng đội, thì việc gây ra sự cố ấy cũng là lẽ đương nhiên không thể tránh khỏi.
Hành động của Y tá Nguyễn Công Bình đã
thể hiện bản lĩnh quyết đoán của người chiến sĩ Quân y và là một điều kỳ dịu
hiếm có trong lịch sử cứu thương của ngành Quân y trong quân đội ta.
Qua mẫu truyện trên, cho chúng ta thấy
được cái cao cả của người chiến sĩ Giải phóng trong cuộc chiến tranh vừa qua là
hết lòng vì đồng đội.
(*)
Ông là Chính ủy Trường quân sự Quân khu.
-------------------------------
Đã đăng trên báo Quân khu 9,
kỳ 1 tháng 2 năm 2009 và trên Báo Kiên Giang.
Thứ Ba, 8 tháng 4, 2014
CÂY CÒNG (Thơ)
Tháng 03 (âm lịch) lại về. Cái nắng như thiêu như đốt,
dội lên mọi vật, tưởng như không loài nào sống nổi. Vậy mà có những cây
vẫn trụ hình sống mãi với thời gian.
Nếu như cây Xương rồng là hiện thân cho sức sống kỳ
dịu ở nơi cát bõng nắng lửa, thì Cây Còng ở miền Tây nam bộ, cũng có thể được
xem như biểu tượng của sức sống mãnh liệt trước mọi sự khắc nghiệt của tạo hóa
thiên nhiên.
Con người ta cũng vậy. Với những ai có bản lĩnh kiên
cường, thì họ đã và sẽ vươn mình đứng vững trong mọi nghịch cảnh, để giúp cho
đời mãi mãi xanh tươi.
ĐCT xin giới thiệu bài thơ CÂY CÒNG để các bạn cùng
thưởng thức và suy ngẫm.
--------------------------
Nắng
tháng ba
rát da bỏng lửa.
Thương
cây còng
đứng giửa trời xanh.
Rể
bám đất
hút mật nuôi cành.
Thân
chắt lọc
nhựa xanh cho trái.
Trải
bao mưa dầm nắng vãi.
Cây
vẫn trụ hình
vững chãi trước phong ba.
Ảnh: Những cây Còng trên đường về rừng U Minh.
Thứ Tư, 2 tháng 4, 2014
BẢO TÁP SÔNG KIÊN (Tiểu thuyết)
(Tiếp theo kỳ IV)
--------
CHƯƠNG V
Hôm sau trời chưa sáng hẳn, Thiếu tá Trường đã đến nhà
nghỉ của tỉnh trưởng Thuận. Nhà Thuận nằm phía sau dinh, trong khu soài rậm,
phòng tiếp khách bày biện đủ thứ tiện nghi: Tủ kính, ti vi, ghế Salon nệm. . .
trên tường treo đủ loại: Tranh họa, ảnh nữ khỏa thân, xác đồi mồi, kỳ đà ướp khô.
. . Nổi bậc và trang trọng nhất là ảnh Nguyễn Văn Thiệu và đức mẹ Maria, được
đặt ở ngay mặt chính diện trong phòng khách. Những thứ trong phòng này, trừ bức
chân dung Tổng thống Thiệu và ảnh Mria, còn lại hầu hết là quà tặng in nhan
nhản dấu “kính biếu”, “kính tặng” của chủ hiệu buôn này, nhà hát kia, công ty
nọ. . . Tóm lại, toàn những thứ của các nhà giàu có nhất ở Rạch Giá này biếu
không để được lòng ông tỉnh trưởng. Bộ ghế Salon có nệm để tiếp khách đóng bằng
gỗ cẫm lai một cách cầu kỳ này, là của chủ hiệu buôn Hiệp Phát biếu tặng. Bà
Mùi mở đầu cuộc giao du với ông quan to nhất tỉnh bằng một bộ ghế đắt giá như vậy
cho nên không bao lâu, bà dể dàng trở thành người thân thiết nhất với ông Thuận,
khiến cho thiếu tá Trường quyền lực uy nghiêm đến thế cũng phải vị nể bà. Còn
ông tỉnh trưởng Thuận, thì mê muội săn đuổi bà không phải vì bộ ghế đắt tiền
kia, mà là cái sắc đẹp rất quyến rũ của bà.
Khoát áo linh mục, ông ta vào Nam năm 1954, lúc Pháp chưa thất
thủ Điện Biên. Hắn làm gián điệp cho Pháp núp dưới danh nghĩa Cha cố. Sau khi
hiệp định đình chiến được ký kết, Pháp về nước, hắn nắm đuôi Ngô Đình Diệm, tôn
thờ chủ mới, vào xứ Rạch Giá, được Diệm và quan thầy Mỹ phong cho cái chức tỉnh
trưởng, thế là như diều gặp gió, hắn ra sức tác oai tác quái, điên cuồng chống
phá chách mạng, đàn áp khủng bố nhân dân, hết qui khu lập ấp chiến lược, đến xua
quân càn quét, ném bom bắn pháo, rải chất độc vào vùng giải phóng, hòng lung
lạc ý chí bám đất giữ làng của nông dân. Hắn tăng cường kèm kẹp vùng đựơc gọi
là “tự do” và ra sức đàn áp các cuộc nổi dậy đấu tranh của quần chúng nhân dân
bằng mọi thủ đoạn. Dưới quyền hắn, còn có nhiều tay chân khét tiếng gian ác mà
điển hình là tên thiếu tá Trường, trưởng ty cảnh sát này.
Trường là tên hung dữ bậc nhất ở tỉnh Kiên Giang. Cha
hắn tên Cả Ban, một địa chủ tàn ác, thâm độc ở xứ Gò Quao bị nông dân nổi dậy
chém chết vào năm 1930, mẹ hắn cũng lâm bệnh chết luôn sau đó vài năm, còn lại,
hắn cùng người anh phải sống bơ vơ nơi đầu đường xó chợ. Diệm lên nắm quyền,
hai anh em hắn vào lính. Anh hắn, Lâm Quang Phong, sau cái lần bị chém chết hụt
ở Tắc Cậu hai năm sau đó cũng bị tử trận, từ đó hắn nung nấu mối hận phục thù.
Hắn cho rằng: Cha và anh hắn chết là do Việt cộng gây ra, hắn xăm trên ngực hắn
hai chữ “sát cộng” và luôn luôn hành động hung bạo của một kẻ báo thù. Bắt bớ,
khảo tra, bắn giết không gớm tay, vì thế hắn được cấp trên tin cậy và trở nên
một con người mẫu mực chống cộng của chính thể quốc gia. Hắn được du học sang
Mỹ, được chủ Mỹ dạy cho cái nghề đàn áp, kềm kẹp nhân dân, khi về nước, hắn
được quan thầy gắn cho cái lon thiếu tá để làm cái chức trưởng ty Cảnh sát của
cái tỉnh lẻ này.
Trong đợt chống biểu tình lần này, Trường được tỉnh
trưởng Thuận giao cho nhiệm vụ hết sức trọng đại: Là phải tìm cho ra tổ chức
chỉ huy cuộc biểu tình, bắt cho được
người cầm đầu, nhằm dập tắc cuộc biểu tình.
*
* *
Trong buồng ngũ, tỉnh trưởng Thuận vẫn chưa thức. Ngoài
phòng khách, Trường đi đi, lại lại cố cho thời gian trôi đi. Phía ngoài cổng dinh,
người biểu tình vẫn đông đặc, lớp còn đang ngũ, lớp đã thức, mùng mền chiếu
gối, vải nhựa, đủ màu, đủ sắc, lộn xộn, tứ tung. Xuồng ghe, cái đã kéo lên lộ,
cái còn dưới nước, kín sông, chật đường. . . Chỉ có điều tất cả đều im lặng,
một sự im lặng nặng nề và bí ẩn.
Mấy chục tên lính áo rằn vẫn đi lại trong cổng, tay
cầm súng lăm le, mặt chúng bơ phờ, hốc hác qua mấy đêm mất ngủ. Hai chiếc xe
phun nước nằm im như hai con quái vật đang ngủ trước sân dinh.
Trường không thể chờ được lâu hơn nữa, hắn bước lại
gần buồn gỏ cửa. Trong buồng có tiếng vong ra ồm ồm:
- Ai đó?
- Tôi đây. Thiếu tá Trường đây.
- Có việc gì mà đến giờ này? Vẫn giọng ồm ồm ban nãy.
- Ông thức dậy, tôi báo cáo công việc. Giờ này mà ông
còn ngũ được sao?
Một lúc sau, cánh cửa mở. Một thân hình béo phị, tóc
hớt cua lớm đớm bạc, mặc bộ đồ ngủ, lung thụng bước ra. Mặt Thuận chưa tỉnh
ngủ, hai cặp mắt còn tum húp đờ đẫng.
- À! Ông thiếu tá đến sớm thế?
- Công việc cấp bách lắm, tôi phải sang đây xin chỉ
thị của ông.
Thuận lại lếch thếch trở vào buồng, hắn nói vọng ra:
- Mời thiếu tá ngồi đợi tôi một tý.
Khoản mười phút sau, Thuận trở ra. Trông hắn chỉnh tề
trong chiếc áo trắng ngắn tay, quần đen ủi ly thẳng tấp. Hắn đến ngồi đối diện
với Trường.
- Sao? Công việc lấy khẩu cung mấy con mụ ấy thế nào?
Có kết quả gì chưa?
- Thưa tỉnh trưởng, suốt đêm qua tôi đã áp dụng mọi
biện pháp, kể cả việc dùng tâm lý, dụ dỗ mua chuộc, nhưng không ăn thua gì.
- Gay đấy! Cứ để tình trạng này kéo dài là nguy hại
lắm, bọn nhà báo lại làm rum ben lên cho mà xem. À mà kế hoạch bảo vệ hai ngài
cố vấn ông thi hành đến đâu rồi?
- Tôi cho hai ngài cố vấn nghĩ ở nhà riêng của tôi, có
lực lượng canh phòng cẩn mật, bảo đảm an toàn, thưa ngài.
- Bây giờ ông cho mời hai ngài cố vấn đến đây ta làm
việc một tí, công việc hệ trọng này cần phải tham kiến mấy ông ấy mới có thể
sáng ra được.
Trường rời khỏi bộ Salon, đến cái máy điện thoại đặt
trên bàn, phía dưới bức chân dung Thiệu, nhấn ông nghe:
- A lô! . . a lô! . . Hắn dừng lại một lúc rồi nói
tiếp: - Thẹo phải không? Mày lấy chiếc Mersedes của tao đến nhà tao rước hai
ông cố vấn sang đây làm việc ngay, chú ý, phải cải trang cẩn thận, không để bất
cứ người nào biết, có chuyện gì xảy ra mày phải chịu trách nhiệm hoàn toàn nghe
rõ chưa?
Trường gậc đầu mấy cái, cứ như người nói trong máy
đang đứng trước mặt hắn. Hắn gác tay nghe, trở về ngồi lại chỗ cũ, móc gói
thuốc rút một điếu, bất quẹt đốt. Hắn rít một hơi thật sâu, phun ra một quần
khói trắng đặc sệt rồi ngả người ra ghế, mắt lim dim. Một lúc sau hắn nói:
- Thưa tỉnh trưởng, tình hình này tôi e tụi nó mở
chiến dịch lớn. Theo như tin tức tình báo nắm đựơc thì có bảy quận tham gia,
nếu tính cả dân thị xã này xuống đường nữa thì số lượng khoảng từ mười lăm đến
hai mươi ngàn người. Như vậy, qui mô cuộc biểu tình này thụôc cấp tỉnh, không
phải như ban đầu ta nhận định là cuộc đấu tranh thuần túy, nó có thể kéo dài
mười, mười lăm ngày chứ không ít.
- Dựa trên cơ sở nào mà thiếu tá cho là qui mô cuộc
biểu tình đến cấp tỉnh? Và những dấu hiệu gì để ông nhận định thời gian kéo dài
như vậy?
Trường gõ gõ điếu thuốc vào cái gạc tàn rồi ngước lên
chậm rãi phân tích:
- Nghiên cứu các bản kiến nghị của chúng cho thấy: Nội
dung yêu sách đều giống nhau. Ở đâu cũng đòi chấm dứt ném bom, bắn pháo, đói bồi
thường nhân mạng, đòi Mỹ về nước, đòi thống nhất hai miền Nam Bắc. Cách bố trí
cũng hết sức tinh vi. Mẹ kiếp!. . .Mọi lần nó mới rục rịch ở trỏng ta đã biết, vậy mà lần này, cùng một lúc, chúng bò
tới lỗ mũi mình mới ngửi thấy, thử hỏi không có sự điều phối chặt chẽ thì làm
sao có rự trùng hợp kỳ lạ như vậy? Việc tụi nó đem mọi thư soong nồi gạo mắm,
cũng đủ cho ta thất ý định trụ lại của chúng, không phải năm ba ngày như mọi
khi. Về số lượng, nếu so sánh với các đợt trước thì lần này không đông hơn bao
nhiêu, nhưng chắc chắn về chất thì găy gắt, quyết liệt hơn nhiều. Tôi tin rằng
cấp chỉ huy cuộc biểu tình lần này phải là tỉnh ủy viên.
Đang đăm chiêu nhìn vào tấm bản đồ chi chít những ký
hiệu, Thuận quay phắt lại nhìn Trường:
- Sao? Ông nói có cấp tỉnh ủy viên chỉ huy cuộc biểu
tình này à? Thế thì bằng mọi cách, tóm cho được!
Thuận đưa bàn tay lên chém vào không gian, lặp lại một
cách kiên quyết:
- Phải tóm, tóm cho bằng được chúng nó!
- Thưa ngài, tôi chỉ mới nhận định dựa trên những dấu
hiệu đã có thôi chứ chưa hẳn là đúng.
- Không! Ông nói rất có lý. Dứt khoát bọn đầu sỏ phải
là cở tỉnh ủy viên. Đây không phải là một cuộc đấu tranh thuần túy, ông nhận
định có tính Lô gíc đấy. Ông thử nghĩ xem, trong lúc chúng ta đang gấp rút hoàn
tất kế hoạch có ý nghĩa chiến lược, dự định thực thi trong toàn cõi Việt Nam,
có sự phối hợp của không quân Hoa Kỳ đánh phá Bắc Việt, một kế hoạch tấn công
triệt để vào bọn Cộng sản nhằm mở rộng vùng tự do, vậy mà chúng chủ động đánh
trước ta. Hồi đêm hôm, tôi nhận được điện thoại của văn phòng phủ tổng thống,
thông báo Việt cộng đã mở chiến dịch lớn, cả chính trị lẫn quân sự. Hôm qua ở
Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc, Long an, Trà Vinh cùng nhiều tỉnh miền Trung, dân
chúng đã xuống đường biểu tình. Tại Sài Gòn, lực lượng sinh viên tràn đến bao
vây dinh Độc Lập, giương khẩu hiệu công khai đòi lật đổ tổng thống, đòi Mỹ về
nước. Về quân sự, chúng tập kích mười sáu căn cứ rải rác trên khắp bốn vùng
chiến thuật. Một sân bay ở Huế cũng bị pháo kích, làm cháy mất tám máy bay, Tổng
thống ra lệnh cho các tỉnh, các quân khu chuyển sang kế hoạch phòng thủ, quyết
tâm giữ vững vùng tư do và tìm mọi cách dập tắt các cuộc biểu tình.
Thuận ngừng nói, lấy bình nước rót một ly uống cạn,
rồi hắn đưa tay chỉ về tấm bản đồ to tướng trên tường, lộ vẻ bi quan:
- Ông thấy đấy: Vùng Việt cộng thì ngày càng phình to
ra, còn vùng của ta thì ngày một teo dần lại, đã có bao nhiêu chiến dịch, bao
nhiêu kế hoạch, rút cuộc vẫn không xoay chuyển đựơc tình thế. Cứ cái đà này,
hai năm nữa có thể tiêu!. . . Tiêu hết!. . .
Thuận bực dọc đứng dậy, bước đến bên tấm bản đồ. Hắn
xem lại xem nơi nào còn, nơi nào mất. . . Có lẽ hắn vẫn còn hy vọng, hy vọng ở
những nơi nào đó còn có thể giữ được, dù đó là sự hy vọng mong manh.
Tấm bản đồ quân sự tỷ lệ 1/25.000, to sừng sững trên
tường kia, dầy đặc những dấu gạch chéo bằng mực đen trên những ô có kẻ cờ ba
sọc. Nó đánh dấu những vị trí đồn bót trên địa phận của tỉnh bị mất. Mảng màu
xanh nhạt chiếm hầu như toàn bộ phía nam sông Cái Lớn và từng vùng rộng lớn ở
phía bắc. Mảng màu xanh ấy cũng trải rộng lên các vùng khác, từ Hà Tiên qua Hòn
Đất cho đến Châu Thành, Rạch Giá. Nó hòa quyện với màu lam của biển, màu thẫm
của núi rừng, khiến cho cái trung tâm của tỉnh lỵ này trở nên đơn độc . . . Nhìn
những vị trí lẽ loi còn lại trên tấm bản đồ, lòng Thuận cảm thấy buồn nản. Phải
chăng đó là dấu hiệu báo trước sự diệt vong của một chế độ mà ông ta hết lòng
phụng sự? Cái gì sẽ đến với hắn, nếu điều ấy xảy ra? Tiền của . . . danh vọng .
. . hắn càng nghĩ càng thêm chán chường.
Mãi suy tư điều gì đó, bây giời Trường mới trở lại câu
chuyện. Trường đặt câu hỏi với Thuận:
- Thế còn quân lực Hoa Kỳ? Chẳng lẽ sức mạnh như vậy
họ làm ngơ được à?
Thuận chậm rãi trở lại bộ ghế:
- Mấy sư đoàn tinh nhuệ của Mỹ nằm chết dí ở căn cứ,
chẳng làm được gì. Mà thực chất cũng không thể làm gì được, bởi vì phương thức
tác chiến của họ theo lối tổng lực tấn công, cái đó chỉ áp dụng và phát huy
hiệu quả khi đối phương thực hiện chiến tranh chính qui, có mặt trận hẳn hoi,
còn đối với loại chiến tranh du kích của Việt cộng, thì chỉ có hốt rác đem về
chứ làm đựơc tích sự gì. Lính tráng thì to xác, chậm chạp như bò, dễ làm mồi
cho chúng tỉa. Mới qua năm trước, năm sau đã bị đối phương đánh phủ đầu. Mấy
trận ở Núi Thành, Bình Giã, Ba Gia, họ bị tổn thất đậm, chỉ có đám chủ lực của
ta thì còn làm ăn khá, nhưng lần này lại bị động hoàn toàn. Hành quân phong tỏa
nơi này chưa xong, thì nơi khác bị tấn công, lại phải điều quân cứu viện phong
tỏa, cứ quay như đèn cù. Bây giờ chỉ còn trông cậy vào đám không quân . . .
Thuận có vẻ phấn chấn trở lại, hắn nói giống như một
nhà diễn thuyết:
- Lực lượng này oanh kích có hiệu quả, đánh trúng căn
cứ của chúng, đồng thời cũng uy hiếp được khá nhiều dân ra vùng tự do. Song
cũng không thể tránh khỏi tổn thất. Ở Bắc Việt thì khỏi phải nói rồi, ngay ở
tỉnh ta cách đây mấy ngày thôi, một chiếc F 105 đi ném mục tiêu ở địa phận Vĩnh
Thuận bị trúng đạn du kích, cắm đầu xuống ruộng cách chi khu Gò Quao về phía
đông chỉ có hai ngàn mét, may mà phi công kịp bung dù lái về được chi khu.
Thuận lại rời ghế, lê cái thân béo phị đến bên tấm bản
đồ rồi quay lại:
- Ở địa phận của ta, từ đầu tháng đến nay có gần một
trăm phi vụ oanh kích và tám phi vụ khai hoang. Có lẽ nay mai sẽ tiến hành tiếp
các phi vụ khai hoang còn lại.
Thuận đưa bàn tay úp một số điểm trên tấm bản đồ nói
tiếp:
- Ta sẽ dứt điểm làm trống tuyến sông Cái Lớn, tạo
thuận lợi cho giang đoàn 108 hoạt động tạo hành lang nối liền tỉnh lỵ với các
chi khu còn lại, đuổi bọn chúng về rừng U Minh.
Thuận định nói tiếp chợt cánh cửa phòng sau bật mở,
thiếu úy Thẹo mặc bộ thường phục, đầu đội nón nỉ xám, mắt đeo kính đen bước
vào. Theo sau hắn là hai tên cố vấn Mỹ, đều mặc Com lê thắt cà vạt, khép nép đi
vô, trông chúng giống như hai con rùa đang lũi trốn khi có tiến động. Có lẽ, trên
chặn đường từ nhà Trường đến đây, chúng đã nhìn thấy người biểu tình la hét ầm
ĩ, chứng kiến cái khí thế sôi sục của hằng vạn con người đang bao vây dinh tỉnh
trưởng, nên cái vẻ oai phong đã biến mất, nhường chỗ cho sự sợ hãi hiện rõ trên
khuôn mặt của chúng.
Ngoài kia, âm thanh hổn độn tiếng người biểu tình, tiếng
sóng biển qua cửa mở vọng vào phòng. Nỗi lo lắng lộ rõ trên hai gương mặt của
Thuận và Trường.
Thẹo! – Thiếu tá Trường gọi: - Mày ra ngoài dinh nhắc
nhở hai trung đội cảnh sát dã chiến phải canh giữ nghiêm nhặt, không cho ai leo
lách qua cổng, đứa nào leo rào cứ đập chết mẹ hết, còn mày về phòng trực đợi
tao.
Chờ Thẹo đi khỏi, Trường mới đến đóng cửa khóa chốt, căn
phòng trở lại trạng thái yên tĩnh như ban nãy. Sau khi ngồi vào vị trí của mình,
Trường bắt đầu báo cáo với hai tên cố vấn.
Thưa hai ngài cố vấn, tôi xin báo sơ lược diễn biến tình
hình và nhận định của tôi về cuộc biểu tình như thế này: Lực lượng tham gia ước
chừng mười lăm đến hai mươi ngàn người, gồm bảy quận và một thị xã. Nội dung
chúng yêu cầu là ngừng ném bom ở nông thôn, bồi thường thiệt hại người và tài
sản và đòi . . . Trường hơi ngập ngừng rồi tiếp: - Chúng đòi người Mỹ về nước,
đòi thống nhất Bắc Nam.
John – Tên cố vấn có bộ râu quai nón ngắt lời Trường.
Giọng hắn lơ lớ nửa Bắc nửa Nam:
- Thôi! Thôi! Ông nên tập trung vào vấn đề cốt yếu của
sự việc, còn các thứ yêu sách ấy chúng tôi đã rõ rồi. Không phải chỉ có ở đây,
mà hầu hết ở cả Nam
phần này: Sài Gòn, Đà Nẳng, Huế, Cần Thơ. . . ở đâu bọn chúng cũng đều có yêu sách
như vậy cả, ông khỏi phải nói nội dung ấy ra đây cho mất thời gian.
Lời tên cố vấn nói có vẻ đỉnh đạc, không giống như
dáng bộ của hắn lúc mới vào. Có lẽ trong căn phòng yên tĩnh được cách biệt với
thế giới bên ngoài, nên hắn đã hoàn hồn. Hắn nói tiếp:
- Ông cho biết ý đồ của Vi Ci (Việt cộng) có lật đỗ
chính quyền không? Kế hoạch phòng thủ bảo vệ thế nào? Diễn biến sắp tới ra sao?
Sau cùng là kế hoạch giải tỏa của ông và kết quả đạt được?
Trước những câu hỏi bất ngờ của tên cô vấn, thiếu tá
Trường hơi lúng túng. Hắn chậm rãi lấy gói thuốc rút một điếu châm lửa đốt. Hắn
vừa hút vừa suy nghĩ. . . Cuối cùng Trường cũng tìm ra được câu trả lời:
- Thưa ngài! Việc lật đỗ chính quyền thì tôi khẳng
định không bao giờ có, vì đối với đám đàn bà tay không này, chúng không thể làm
được việc đó. Bọn Cộng sản cũng thừa biết rằng nếu có đem quân chủ lực đến cũng
chưa chắc chiếm đựơc dinh tỉnh này trước một lực lượng khá hùng mạnh của ta.
Còn việc bố trí lực lượng? Thưa ngài! Tôi đã điều hai trung đội cảnh sát dã
chiến đến bảo vệ dinh, ông tỉnh trưởng cũng ra lệnh đặt đại đội thiết giáp bên
tiểu khu trong tình trạng cơ động chiến đấu cao và chỉ thị cho tiểu đoàn biệt
động Báo đen sẳn sàng ứng cứu khi cần thiết. Về tình hình diễn biến sắp tới? Theo
tôi nhận định thì chúng nó có khả năng kéo dài từ mười ngày trở lên, còn kế
hoạch giải tỏa cuộc biểu tình, tôi đã bắt được tám tên nhưng thuộc tay em,
những tên này chỉ cầm đầu một vài nhóm nhỏ, không phải bọn chỉ huy. Tôi cũng đã
cho mạng lưới mật báo viên, cả nhân viên phòng nhì, trà trộn vào dân biểu tình
để phát giác bọn đầu sỏ.
John quay sang Thuận:
- Phủ Tổng thống có thông tin gì cho ông không?
Nghe tên cố vấn hỏi hắn người lên đáp ngay:
- Thưa ngài có ạ!
Thuận bước tới bàn làm việc, rút ngăn kéo, lấy ra một
tờ giấy dày đặc chữ, trao cho tên cố vấn, hắn nói tiếp:
- Đêm hôm văn phòng phủ Tổng thống có điện cho tôi,
tình hình gay đấy. Có thể trong bức điện này, sứ quán Hoa Kỳ cũng báo cáo cho
các ông biết tình hình ấy.
John xem bức điện, nét mặt hắn lộ vẻ lo lắng. Xem
xong, hắn trao cho tên đồng sự của hắn rồi quay sang Trường:
- Tôi đặt giả thiết thế này: Nếu bọn biểu tình tràn
vào thì ông xử lý ra sao?
- Thưa ngài bắn ạ. – Hắn đáp ngay.
Thuận quay lại nhìn Trường định nói điều gì, nhưng tên
cố vấn lại đặt câu hỏi thứ hai:
- Ông thử xem, mấy chục tên cảnh sát với những khẩu
súng tiểu liên cỡ 5,6 ly của các ông, có khả năng chống lại với hàng chục ngàn
người nếu cùng một lúc, chúng tấn công vào dinh?
- Thưa ngài! Chúng ta chỉ cần bắn chết hoặc bị thương
một vài tên là bọn chúng thoái chí không dám tiến vào đâu.
Tên cố vấn nghiêm giọng:
- Ông chủ quan duy lý một cách khờ dại lắm thiếu tá ạ!
Là một sĩ quan được đào tạo tại Hoa Kỳ hẳn ông đã biết người Mỹ chúng tôi rất
thực tế. Mấy năm nay, bọn thầy tu ở Huế, bọn sinh viên ở Sài Gòn, bọn nông dân
ngu dốt ở đồng bằng sông Cữu Long, chúng vẫn liên tục xuống đường, bất chấp sự
đàn áp thông thường của cảnh sát các ông. Và mới năm rồi, ông đã báo với tôi ở
đâu nhỉ? À! ở sông Cái Lớn, ông đã ngồi trên trực thăng dùng đại liên bắn chặn
một đoàn biểu tình, nhưng họ vẫn cứ tiến đấy sao? . . Tôi muốn nói rằng đối với
bọn dân thân Cộng, khi mà lý tưởng xã hội chủ nghĩa đã bị Cộng sản thuần hóa
biến họ thành những con chiên ngoan đạo, thì chỉ có cái chết ghê rợn và khủng
khiếp nhất, mới có thể hạ gục được ý chí chống đối của chúng.
Dường như lời nói của John đã đụng chạm đến một khía
cạnh nào đó có tính hệ trọng, nên Thuận lên tiếng tham gia. Hắn hỏi lại:
- Nghĩa là ông dự định dùng biện pháp đẫm máu?
- Có thể là như vậy. – John đáp.
- Không! Tôi không tán thành biện pháp đó. Các ngài
nhớ rằng ở đây là bộ mặt của Chính phủ Quốc gia chúng tôi. Tôi đồng ý với các
ngài là ta thực hiện phương sách ấy ở nơi khác. Có thể ở quận lỵ chẳn hạn, còn
ở dây tuyệt nhiên không. - Thuận tỏ vẻ
dứt khoát.
Adam (tên cố vấn thứ hai) để bức điện hắn xem nảy giờ
lên bàn, ngẩng đầu lên nhìn Thuận rồi tham gia tranh luận:
- Ông Thuận này. Những dấu hiệu của năm 1960 sắp tái
hiện lại rồi đấy (ý nói cuộc đồng khởi của ta). Ông còn nhớ bài học của Bến Tre
năm ấy không? Lúc đầu bọn Vi Ci cũng trương băng biểu tình giống như những cuộc
biểu tình ở bên nước Mỹ chúng tôi, nhưng sau đó chúng dùng lực lượng võ trang
thừa cơ cướp liền mấy quận, các ông trở tay không kịp. Thực tế đó là do thói
chủ quan của người Việt các ông, chúng tôi không muốn thực tế ấy tái diễn một
lần nửa ở đây hay ở bất cứ nơi đâu, nếu như người Mỹ chúng tôi vẫn còn có mặt
tại Việt Nam.
Căn phòng trở nên lặng lẽ, không ai nói thêm lời nào,
mỗi người hình như đang đeo đuổi ý nghĩ nào đó. Riêng Thuận, gương mặt tỏ vẻ ưu
tư lầm lì, có lẽ hắn chưa thể chấp nhận phương án mà hai ngài cố vấn đưa ra. Có
thể hắn lo ngại cho số phận của hắn trước sự suy sụp ngày càng nhanh của cái
chính thể mà hắn đang phụng thờ. Hắn nghĩ đến cái ngày người Mỹ cuốn cờ về
nước, chính quyền lọt vào tay Cộng sản . . .
- Ông Thuận này! – Tên Adam tiếp: - Nếu sự thực diễn
ra như giả thiết của ông John thì không còn cách nào khác thế đâu ông ạ. Chúng
ta phải biết cứng rắn một khi cần thiết, chúng ta muốn bảo vệ chính quyền và
bảo vệ sinh mạng của chúng ta, thì thượng sách là bạo lực. Nếu Cộng sản dùng
bạo lực để lật đổ chúng ta thì chúng ta phải biết dùng bạo lực của sắt thép
chống lại sự lật đổ ấy. Điều đó không có gì là tàn bạo cả, nó như là sự tất
yếu, giống như qui luật bảo tồn sự sống của sinh vật vậy.
- Nhưng tôi sẽ có cách khác tốt hơn.
- Ông thử trình bày cách của ông xem sao? – Vẫn tên
Adam.
Thuận nói chậm rãi, nét mặt vẫn chưa hết sự ưu tư.
- Trong trường hợp mà ngài John đặt ra, tôi sẽ giải
quyết bằng phương pháp hòa hoãn. Tôi sẽ mời đại diện của họ vào dinh để thương
thảo như các lần trước chúng tôi vẫn làm. Ta sẽ ký kết một số yêu sách của họ,
thế là êm ngay chứ gì.
Trường rướn người tới xen vào:
- Nhưng hôm qua ta đã bắt đi tám người của họ cũng
bằng cách đó, liệu họ có tin ta nửa không?
John lại đặt câu hỏi với Thuận:
- Nếu trường hợp họ không cử đại diện mà kéo vào thì
sao?
Suy nghĩ một lúc lâu, Thuận nhìn lên bức ảnh đức mẹ
Mria. Dường như hắn tin ở đó có sự che chở cho hắn khi phải làm một việc gì đó
hệ trọng. Hắn quay sang John nói, giọng có vẻ hơi yếu đuối:
- Nếu họ không cử đại diện vào đây thị tôi ra vậy.
John đập mạnh bàn tay xuống thành ghế rồi đứng dậy vừa
đi vừa nói:
- Ông điên rồi sao? Ông cho rằng trong những người phụ
nữ ấy không có người biết bắn súng lục à? Thật là điên dại! Bọn Vi Ci không bao
giờ bỏ lỡ cơ hội tiêu diệt những người nổi tiếng chống Cộng như ông đâu nhé.
Tên John vẫn đi lại trong phòng. Hắn nghiêm giọng:
- Không có thời gian để tranh luận nửa, ông điều một
lực lượng có hỏa lực mạnh đến đây ngay và thực hiện phương án ấy, nếu dự đoán
của tôi xảy ra, đồng thời bằng mọi cách, phải giải tán cho được cuộc biểu tình
càng sớm càng tốt.
Một giờ sau, hai chiếc xe bọc thép, một đại đội biệt
động quân, được điều đến dinh tỉnh trưởng trực chiến.
(Còn nửa)
Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014
TUỔI TRẺ GÒ QUAO...(Bài phát biểu)
TUỔI TRẺ GÒ QUAO TIẾP BƯỚC
CHA ANH XỨNG TẦM THỜI ĐẠI
(Trích bài phát biểu
tại cuộc họp mặt kỷ niệm 74 năm
ngày thành lập Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh)
---------------
Đoàn Công Thiện (*)
Hằng nửa thế kỷ đã đi qua, trong từng giai đoạn lịch
sử của huyện nhà, dù ngắn hay dài, mỗi người chúng tôi, ít nhiều đều để lại
những dấu ấn nhất định trong lòng các bạn cùng thời. Hôm nay có người đã đi xa,
nhưng hình bóng của họ không bao giờ phai nhạt trong lòng của bao bạn bè đồng
chí. Những người còn lại, mỗi người đều đứng ở mỗi vị trí xã hội khác nhau; Có
anh bạc đầu vì lo việc nước, nhưng có bạn sạm mình trong nắng gió mưu sinh.
Xong, có lẽ cái chung nhất mà chúng tôi có được trong khoản thời gian gắn bó
với Đoàn, đó là niềm tin vào sức mạnh của tuổi trẻ, sức mạnh của “Phù Đổng vươn
mình đánh đuổi giặc Ân”, sức mạnh của một thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,
mà lòng phới phới dậy tương lai”, sức mạnh của “sao vàng đất Việt vươn tầm cao
trí tuệ giống tiên rồng” . . . Đó là sức mạnh được hun đúc trong suốt chiều dài
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Cứ mỗi khi tổ quốc lâm nguy, sức
mạnh ấy lại trỗi dậy trong huyết quản của hằng triệu, hằng triệu trái tim yêu
nước của tuổi trẻ và chính họ đã làm rạng danh non sông đất nước, làm rạng danh
cho dân tộc Việt Nam
yêu quí của chúng ta.
Cách nay không lâu, tôi có dịp dự lễ tiển đưa thanh
niên Gò Quao lên đường nhập ngũ. Một lần nửa, cái hào khí của tuổi thanh xuân
trên quê hương Gò Quao lại được biểu dương, nó như ngọn đuốc rực sáng của phong
trào tuổi trẻ giữ nước. Tôi nghĩ rằng, để có được cái hào khí ấy là kết quả của
một quá trình vận động sáng tạo của các đồng chí làm công tác Đoàn đương thời,
dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Ủy ban và ban ngành trong huyện; Đó còn là sự kế
thừa có hiệu quả của các đồng chí đối với lớp người đi trước. Chúng ta hy vọng
rằng phong trào này cũng như các phong trào khác, luôn được duy trì và phát huy
tốt hơn nửa trong thời gian sắp tới.
Có thể nói, tuổi trẻ hôm nay đang sống trong một môi
trường tốt nhất mà nền thông tin công nghệ và các phương tiện khoa học kỷ thuật
khác đem lại, những nhu cầu hưởng thụ vật chất và tin thần của con người được
đáp ứng đấy đủ mà trước đây chưa bao giờ có được. Điều kiện kết nối thông tin
và tiếp cận với thế giới nhanh hơn, rộng hơn và phong phú hơn, nhưng nếu giới
trẻ không biết tự chọn lọc, tổ chức Đoàn không có định hướng đúng đắn thì chính
những điều kiện ấy sẽ xô đẩy lớp trẻ rơi vào khuynh hướng tầm thường hay sa đà
vào lối sống dung tục bản năng, mà hệ quả là nhân cách bị tha hóa, đạo đức
xuống cấp, lý tưởng bị phai nhạt.
Chúng tôi mong rằng: những khuynh hướng đã nói không
thể xảy ra trên quê hương Gò Quao của chúng ta, một vùng quê giàu sự tích anh
hùng trong quá trình khai thiên lập địa, trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược
vừa qua và tuổi trẻ Gò Quao đã và sẽ tiếp bước cha anh đi trước vươn lên xứng
tầm thời đại .
(*)
Nguyên Bí thư huyện đoàn Gò Quao.
------------------------
MẤY HÌNH ẢNH TRONG MỘT LẦN LÀM LỄ KỶ NIỆM NGÀY THÀNH LẬP ĐOÀN
CÁC CHÁU THIẾU NIÊN BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT
Thứ Ba, 25 tháng 3, 2014
ĐÊM GẶP BẠN Ở CẦN THƠ (Thơ)
ĐÊM GẶP BẠN Ở CẦN THƠ
Đoàn Công Thiện
Đêm gặp bạn ở cần thơ.
Mấy đứa ôm nhau quay
mờ cã mặt.
Cãm xúc rung trong
khoé mắt.
Mừng vui lấp lánh sáng
trên môi.
Hương nghiã tình ngan
ngát vẫn thơm tươi.
Men đồng đội say lòng
không cạn.
Đêm gặp bạn ở cần thơ.
Ánh điện sáng nhớ bóng
trăng thuỡ ấy.
Cũng mấy đứa nôn nao
xem lửa nhảy.
Dưới tán rừng nồi nước
chưa sôi.
Lưng chúng tôi trăng
múa reo vui.
Lòng mổi đứa rạc rào
như gió gọi.
Trà không còn đậu rừng
rang phãi đợi.
Rát cã lòng cơn đói
ngủ đến chơi vơi.
Đêm gặp bạn ở cần thơ.
Phút chia tay trời
hồng bừng sáng.
Siết tay bạn nghe lòng
thương lai láng.
Mổi đứa lại một phương
xa cách muôn trùng.
Lòng nhủ lòng giữ đậm
chữ kiên trung.
Không để vướng bụi đời
nhân thế.
Cho xanh mãi hôm nào
lời tuyên thệ.
Sắc thuỷ chung luôn đỏ
rực trong tim.
---------------
Đã in
trong tập thơ THĂM LẠI TRUNG ĐOÀN
nhà xuất
bản Phương Đông và Hội Văn Nghệ Kiên Giang-2005
Các ảnh trên: Trung tướng Phạm Hồng Lợi cùng các đồng đội thời đánh Mỹ (ảnh chụp ngày 04-01-2014 tại Cần Thơ)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)