(Chinhphu.vn) - Khung hình phạt tù có thời hạn được quy
định cho mỗi tội danh tại Bộ luật Hình sự hiện nay và kể cả trong dự
thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) là quá rộng. Điều này dẫn đến tình trạng
xét xử ở các tòa án không thống nhất trong việc định lượng hình phạt cho
bị cáo.
Thực tiễn xét xử cho thấy, cùng
một tội danh, cùng tính chất, mức độ phạm tội như nhau, nhân thân giống
nhau, nhưng ở nơi này xử mức án cao, ở nơi khác xử mức án thấp, thậm chí
ở cùng một tòa án, lúc thì xử thấp, lúc lại xử cao. Nhược điểm này còn
có thể làm phát sinh tiêu cực trong hoạt động xét xử ở ngành tòa án hiện
nay.
Nhằm khắc phục nhược điểm nói trên,
người viết xin nêu một số quy ước các nhóm hình phạt cơ bản dựa trên cơ
sở nội dung phân chia tội phạm. Trong mỗi mức chuẩn, lại có cách biệt
lũy tiến từ thấp đến cao để quy định cho từng tội danh ở các chương
trong phần các tội phạm, cụ thể:
Nhóm I: Tội ít nghiêm trọng gồm các mức 6
tháng; 12 tháng; 2 năm và 4 năm tù giam (bỏ mức 3 tháng và cao hơn một
năm so với luật hiện hành).
Nhóm II: Tội nghiêm trọng gồm các mức 2 năm; 4 năm; 6 năm và 8 năm tù giam (cao hơn một năm so với luật hiện hành).
Nhóm III: Tội rất nghiêm trọng gồm các mức 6 năm; 9 năm; 12 năm hoặc 15 năm tù giam (như luật hiện hành).
Nhóm IV: Tội đặc biệt nghiêm trọng gồm các mức 10 năm; 20 năm; 30 năm; 40 năm tù giam hoặc tử hình (bỏ hình phạt chung thân).
Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi; căn cứ khách thể bị xâm hại trong phần giả định tội phạm mà mỗi
tội danh quy định có 3 hoặc 4 bậc hình phạt.
Ví dụ: Điều 100. Tội bức tử (ví dụ này bao gồm cả sửa đổi điều luật)
1. Người nào thường xuyên ức hiếp, ngược
đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình, làm người đó tự sát, thì phải
chịu một trong các hình phạt sau đây: 2 năm; 4 năm hoặc 6 năm tù giam.
2. Phạm tội làm hai người tự sát thì phải chịu một trong các hình phạt sau đây: 6 năm; 9 năm hoặc 12 năm tù giam.
3. Phạm tội làm ba người trở lên tự sát, thì phải chịu một trong các hình phạt sau đây: 10 năm; 20 năm hoặc 30 năm tù giam.
Xác định thời gian phạt tù theo tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
Các tình tiết tăng nặng (Điều 48 cũ),
giảm nhẹ (Điều 46 cũ) cũng được sửa đổi bằng cách quy định rõ cho mỗi
tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ (cộng thêm và trừ đi) một tỉ lệ thời
gian của hình phạt chuẩn được áp dụng.
Ví dụ: a) Người phạm tội đã ngăn chặn,
làm giảm bớt tác hại của tội phạm, thì được giảm 1/10 thời gian hình
phạt chuẩn bị áp dụng.
b) Người phạm tội có tổ chức thì bị tăng 2/10 thời gian hình phạt chuẩn bị áp dụng.
Khi xét xử, tòa án căn cứ tính chất và
mức độ phạm tội, căn cứ nhân thân của bị cáo mà chọn một mức chuẩn trong
nhóm hình phạt quy định tại điều khoản được áp dụng làm cơ sở, sau đó
cộng và trừ lượng thời gian của những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
được áp dụng, tạo thành mức phạt cụ thể cho bị cáo.
Nếu bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng được áp dụng, thì mức chuẩn là lượng thời gian xác định
tuyên phạt cho bị cáo.
Trong trường hợp đồng phạm, thì người
chủ mưu, người thực hành phải chịu hình phạt chuẩn ngang nhau; người
giúp sức chịu hình phạt chuẩn một nửa, người xúi giục chịu hình phạt
chuẩn 1/4 so với hình phạt chuẩn được áp dụng cho người chủ mưu, người
thực hành.
Nếu người chủ mưu, người thực hành bị áp
dụng hình phạt tử hình, thì người giúp sức phải chịu hình phạt chuẩn 10
năm hoặc 20 năm, người xúi giục phải chịu áp dụng hình phạt chuẩn 6
năm, 9 năm hoặc 12 năm tùy theo tính chất hành vi của họ.
Trong trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc
phạm tội chưa đạt, nếu loại tội phạm bắt buộc phải chịu hình phạt, thì
quy định lấy mức khởi điểm trong khung hình phạt của tội danh mà người
đó có hành vi chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt, làm cơ sở và quy
định người có hành vi phải chịu 1/3; 1/2 hoặc 2/3 thời gian của mức
khởi điểm đó làm hình phạt chuẩn.
Ở khung hình phạt cơ bản, trong mỗi nhóm
chỉ có 3 hoặc 4 mức chuẩn, hoặc có cả hình phạt tù có thời hạn lẫn hình
phạt tử hình, sẽ tạo thuận lợi cho tòa án xác định mức phạt khi xét xử.
Ví dụ: Bị cáo A phạm tội “Bức tử” (Điều
100 cũ), nếu rơi vào Khoản 1, ta nhận biết được ngay mức chuẩn cần áp
dụng là 2 năm; 4 năm hoặc 6 năm tù giam. Nếu nhân thân tốt, tính chất
hành vi phạm tội không cao, thì áp dụng mức chuẩn 2 năm. Nếu nhân thân
xấu, nhưng tính chất hành vi phạm tội không cao, thì áp dụng mức chuẩn 4
năm. Nếu nhân thân xấu và tính chất hành vi phạm tội cao, thì áp dụng
mức chuẩn 6 năm.
Vấn đề quyết định hình phạt nhẹ hơn hoặc
nặng hơn trong Bộ luật Hình sự, tính sát thực của phương án “chuẩn hóa
hình phạt” là ở chỗ, khi đi vào thực tiễn xét xử, nó định ra được tính
chất riêng biệt của hành vi phạm tội cụ thể phải áp dụng hình phạt thấp
hơn hoặc cao hơn hình phạt chuẩn, trên cơ sở lượng thời gian tăng nặng,
giảm nhẹ theo logic pháp lý, nó xóa bỏ tính chung chung trong Luật hiện
hành.
Có thể thấy rõ qua ví dụ trên: Bị cáo A
phạm tội “Bức tử” (Điều 100) rơi vào Khoản 1 (có một người tự sát), thì A
bị áp dụng mức chuẩn là 2 năm, có một tình tiết giảm nhẹ (không có tình
tiết tăng nặng), đương nhiên A được hưởng mức án cụ thể dưới khung hình
phạt 2 năm (dưới mức thấp nhất). Ngược lại nếu A bị áp dụng mức chuẩn
là 6 năm, có một tình tiết tăng nặng (không có tình tiết giảm nhẹ),
đương nhiên A phải chịu mức án cụ thể cao hơn khung hình phạt bị áp
dụng.
Từ những nội dung phân tích trên cho
thấy, nội dung phương án “chuẩn hóa hình phạt” có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng, giúp cho những người tiến hành tố tụng ở giai đoạn xét xử có cơ
sở vững chắc khi quyết định lượng hình phạt cho bị cáo và triệt tiêu
được những nhược điểm như đã nói ở phần đầu.
Luật sư Đoàn Công Thiện
Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang
(Bài viết đã được đăng trong Cổng thông tin điện tử của Chính phủ ngày 24-07-2015)